VỀ MẰNG LĂNG NGHE CHUYỆN VỊ THÁNH TRẺ
Võ Thị Phương
(Phú Yên)
Từ
trung tâm thành phố Tuy Hòa theo quốc lộ 1A, chỉ với 35km hướng ra phía Bắc, bạn
sẽ nhìn thấy một ngôi nhà thờ cổ kính và tráng lệ với hơn 100 năm tuổi - nơi sản
sinh ra vị Á Thánh Tử Đạo tiên khởi của
Giáo hội Việt Nam: Nhà thờ Mằng Lăng.
Nằm
phía trước bên trái nhà thờ từ cổng vào, bạn có thể nhìn thấy một ngọn đồi nhân
tạo phủ cỏ xanh mướt, bên trên là một bức tượng lớn bằng đồng mô phỏng hình ảnh
Á thánh Anrê Phú Yên, bên dưới ngọn đồi là một hang động nhỏ được
tô đắp công phu,
là nơi trưng bày những hình ảnh, bài viết về vị thánh trẻ tuổi cùng với cuốn sách có tên gọi “Phép giảng tám ngày” bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (quen gọi là Cha Đắc Lộ).
Ngày Chúa nhật, từ hang động bước ra, nếu du
khách hỏi chuyện một em học sinh giáo lý: “Vị Á thánh này là ai? Tại sao nơi đây lại trở thành điểm hành hương
thu hút nhiều khách trong và ngoài nước?”, có thể em ấy sẽ đọc cho nghe bài
trường ca năm chữ mở đầu như sau:
“Cây lành sinh trái ngọt
Đất thánh trổ người hiền
Trên quê hương Phú Yên
Có anh hùng tuổi trẻ
Dâng đời làm của lễ
Cho rạng rỡ danh Cha
Từ thuở Việt Nam ta
Đang trên đà Nam tiến”(1)
Á thánh Anrê Phú Yên sinh vào khoảng năm 1625
gần trị sở dinh Trấn Biên (nay thuộc thôn Hội Phú, xã An Ninh), là con út của một
người phụ nữ đạo đức tên thánh là Gioanna. Từ nhỏ, anh được học biết về Chúa Giêsu. Mặc dù chưa được
rửa tội, tình yêu Chúa lớn dần từng ngày trong anh. Rồi một cơ duyên đến với
anh, khi Cha Đắc Lộ tới truyền đạo tại nơi anh sinh sống. Năm 1641 anh được
chính thức trở thành con Chúa qua bí tích rửa tội với tên thánh Anrê. Sau đó,
anh được tham gia vào nhóm thầy giảng
(giáo lý viên) của Cha Đắc Lộ và được đưa ra Hội An để học trường các thầy
giảng. Mặc dù trẻ tuổi nhất, anh đã thành một học viên xuất sắc, một trong
những trợ thủ đắc lực nhất của Cha Đắc Lộ trong việc hình thành chữ Quốc ngữ.
Ngày 31 tháng 7 năm 1643, cùng với một số đồng bạn, anh nguyện tận hiến phục vụ
Giáo hội suốt đời.
Việc truyền đạo gặp rất nhiều khó khăn do quan
niệm cho rằng đạo Công giáo là “bàng môn tả đạo” cần phải bị diệt trừ.
Cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh Quảng Nam, nơi có nhóm thầy
giảng đang được đào tạo. Mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá đạo
Kitô trong nước, nhà quan quyết định hành động, trước tiên là chống lại các
thầy giảng. Ông đã bắt giam một thầy giảng già 63 tuổi cũng tên là Anrê. Hai
ngày sau, 25 tháng 7 năm 1644, ông ra lệnh cho lính tới nhà Cha Đắc Lộ lùng bắt
một thầy giảng khác tên là Inhaxiô. Nhưng thầy Inhaxiô đã đi làm việc tông đồ,
lính chỉ tìm thấy thầy Anrê trẻ. Để khỏi trở về dinh quan bộ tay không, lính
đánh đập thầy Anrê, trói thầy lại, rồi giải xuống thuyền đem về dinh quan trấn
thủ. Lính thưa với quan rằng họ không tìm thấy thầy Inhaxiô, nhưng đã bắt được
một "thầy giảng khác giống như vậy, vì suốt cuộc hành trình, anh ta luôn
nói về đạo Kitô và khuyến khích họ theo Đạo".
Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho thầy Anrê
"từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ lòng tin". Nhưng chàng thanh
niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và rất sẵn sàng chịu mọi
khổ hình chứ không từ bỏ đạo mình tuyên xưng, nên xin quan cứ tùy ý, chàng vui
lòng đón nhận. Chàng xác tín rằng: “Vì đức tin, càng chịu khổ đau chừng nào thì
càng chết vinh quang chừng ấy”. Tức giận vì sự bất khuất của thầy Anrê, không
hề sợ hãi trước những lời đe dọa, quan truyền đóng gông và giải thầy vào ngục.
Buổi chiều ngày 26 tháng 7 năm 1644, thầy bị
giải qua các phố ở Kẻ Chàm, Quảng Nam và đưa ra
pháp trường xử chém. Xin không nhắc lại những lời dũng cảm đầy yêu
thương của người giáo lý viên trẻ tuổi nói với bà con đồng đạo và lương dân, đã
được Cha Đắc Lộ ghi lại trong bút ký “Cái chết vinh quang”. Chỉ xin ghi lại ấn tượng mãnh
liệt chấn động linh hồn tôi, do chi tiết kỳ diệu đến khó tin mà vị giáo sĩ đã
kể: Người lính hành quyết cầu Trời tha tội, rồi đâm gươm từ sau lưng ra trước
ngực người thanh niên đang quỳ gối, nhưng đến nhát gươm thứ ba rút ra, anh vẫn
quỳ yên bất động. Một người lính khác chém mạnh một nhát vào cổ bên trái vẫn
không làm anh ngã xuống. Người ấy lại chém một nhát nữa ở phía trước, cắt đứt
cuống họng, làm ngả hẳn đầu, chỉ còn dính sơ vào một chút da. Vị giáo sĩ trân trọng và
quả quyết viết tiếp: “Người thanh niên thánh thiện này, như trên đã nói, vẫn
không ngớt đọc Thánh danh Chúa Giêsu. Ngay khi đầu thầy đã rời khỏi cuống họng,
và nằm ngả trên vai bên phải, tôi nghe thấy rõ ràng tên cực trọng Giêsu ấy phát
ra từ vết thương nơi cổ, cùng một giọng giống hệt như từ cửa miệng phát ra lúc
trước. Tôi nghe thấy thế rất rõ ràng, và tất cả những người gần tôi lúc ấy đều
nói như vậy, vừa vui mừng lại vừa kinh ngạc” …
Nói đến Anrê Phú Yên, là nói
đến một người trẻ mười chín xuân xanh can trường sống chết vì Chúa Giêsu. Nói
đến Anrê Phú Yên, là nói đến một mẫu gương về các kỹ năng sống cho giới trẻ.
Nói đến Anrê Phú Yên là nói đến sự dấn thân phục vụ dân Chúa của các giảng viên
giáo lý. Như thế, nói đến Anrê Phú Yên là nói đến một cuộc đời đã hoàn thành.
Mằng Lăng - quê hương của Á thánh Anrê Phú Yên - đã sớm thành một xứ đạo kỳ cựu trên vùng đất mới. Rồi cuối thế kỷ XIX đã mọc lên ngôi nhà thờ chúng ta vừa kính viếng, trải hơn 100 năm qua, vẫn sừng sững chào đón những vị khách từ xa đến. Xin kính cẩn dâng lên nén hương lòng, nguyện xin vị “Á Thánh của quê hương này” chuyển cầu ơn bình yên cho con dân của Chúa, nhất là trong giai đoạn toàn cầu đang chống chọi với đại dịch Covid-19.
(1) Lm.Trăng Thập Tự, Trường ca Anrê Phú Yên.
(2) x. Giáo
sĩ Đắc Lộ, Glorieuse mort, trang
54-60 - trích lược theo Phạm Đình Khiêm trong Người Chứng Thứ Nhất, Tinh Việt Văn Đoàn, 1959, trang 155-158.
0 Nhận xét