BÁN CHÚA CHO TAO
Lệ Hằng
Gã
chỉ ngoài năm mươi trong vẻ ngoài hoàn hảo của một cụ ông bảy mươi.
Phải!
Chỉ
ngoài năm mươi thôi. Gã mò mẫm lại những sự kiện chính của đời gã. Ừm, dễ chi
đã qua lục tuần. Nhưng chỉ nói ngoài năm mươi e là chưa đủ, gã sẽ cần một con số.
Phải rồi, một con số cụ thể, năm ba hay năm sáu, hay năm mốt. Sớm thôi gã phải
chọn cho mình một con số làm tuổi cho giống với người ta. Ở đời làm chi có người
không biết tuổi của mình. Một con người sống trong ngôi nhà khang trang có cái
sân vuông vức gọn gàng sẽ không thế. Một con người sống trong ngôi nhà có hòn
non bộ hữu tình lá chen bên đá, đàn cá lượn quanh trước sân sẽ không thế. Một
con người sống trong ngôi nhà có con chó Phú Quốc thuần chủng trứ danh sẽ không
thế. Một con người sống trong ngôi nhà có cái bàn nước đặt trước sân với chồng
sách báo lúc nào cũng nửa úp nửa mở sẽ không thế. Sẽ không thế… sẽ không thế…
Vậy
nên gã cần một con số. Gã sục sạo ký ức tìm một cột mốc thời gian. Khi ấy, gã ở
cùng cha nuôi. Gã được cha nuôi cho đi học. Gã biết các con số. Gã nhớ ra con số
ngày nào gã cũng chép trong tập vở. Gã đã có một năm để làm mốc. Nhưngnăm ấy gã
lên mấy gã lại không biết. Cha nuôi của gã cũng không biết. Gã đoán vậy, ông
chưa bao giờ nói với gã về chuyện này. Khi ông nuôi gã thì gã cũng đã lầm lầm
biết đi. Hình như gã bị bỏ rơi ngoài chợ, hình như gã đã khóc, hình như có bàn
tay ai đó quờ quạngsờ đầu sờ mặt rồi ôm lấy gã, rồi hình như gã được ngủ trong
cái chăn vải hay cái ổ rơm gì đó, nói chung là ấm… Kí ức nhòe nhoẹt khiến gã
đau đầu nhưng gã vẫn không thể nào lần ra được năm gã đã chào đời.
Rồi
người ta sẽ hỏi tuổi. Nhất định sẽ có người hỏi. Nhất định sẽ có nhiều người hỏi
khi gã rời cái xóm mả dời thổ tả này và sở hữu một ngôi nhà. Một ngôi nhà trên
đất hẳn hoi. Một ngôi nhà có cổng cao ngút nhưng hàng rào sẽ thưa, và cánh cổng
cũng sẽ thưa vừa đủ để người qua lại trên đường kịp ngắm hòn non bộ và nếu tò mò
họ sẽ thấy bầy cá cảnh nhịp nhàng lượn giữa đám rong mà gã vớt từ một ao sạch
nào đó. Và họ cũng sẽ thấy cái bàn nước cùng ấm trà của gã. Cả cái ghế tựa bằng
gỗ đánh véc-ni láng bóng của gã. Cả con chó Phú Quốc trứ danh của gã nữa. Phải,
họ sẽ thấy một ngôi nhà đáng sống. Một ngôi nhà đáng sống như ngôi nhà gã đã thấy
nhiều năm về trước. Gã làm sao biết chính xác khi ấy gã bao nhiêu tuổi, nhưnggã
chắc chắn gã đã lớn và gã biết mình muốn gì.
Ngôi
nhà trong phố cảng ấy, ngôi nhà mà gã đã đứng hàng giờ để ngắm nó qua hàng rào ấy
bây giờ gã sắp sắm vai chủ nhà. Và dĩ nhiên qua hàng rào họ sẽ thấy gã. Họ sẽ
thấy gã muôn phần lịch lãm với cuốn sách hay tờ báo trên tay. Gã biết chữ và gã
bắt đầu đọc sách. Nếu ai đó bắt chuyện với gã, họ sẽ được nghe lời hay ý đẹp.
Và nếu may mắn, gã sẽ vớ phải người cả đời không đọc nổi một cuốn sách, hắn ta
sẽ xuýt xoa xem gã là túi khôn của nhân loại.Một trí thức đáng kính. Đó là gã,
chính xác là gã. Rồi sẽ có ít nhất một đứa rách rưới nào đó âm thầm ngắm ngôi
nhà của gã qua hàng rào. Nếu nó dại dột tiến gần sát cổng, gã không cần suỵt nhẹ
con chó Phú Quốc vẫn sẽ chồmlên sủa. Loài chó kị người rách rưới. Gã cũng kị
người rách rưới.
Ngôi
nhà của gã, hòn non bộ của gã và cách gã cho cá ăn sẽ y chang như những gì gã
thấy ở phố cảng. Nhưng gã không về phố cảng. Tuyệt đối không về phố cảng. Và
tuyệt đối không ở nơi có lắm nhà thờ. Đúng vậy, gã phải chọn một nơi khuất bóng
các nhà thờ. Có thể gã sẽ về một miền quê, một thị xã hay một phố núi heo hút nào
đấy. Khốn nạn thật, chẳng có phố thị nào mà vắng bóng các nhà thờ và tiếng
chuông ám ảnh của nhà thờ. Và gã cũng phải chọn một nơi sạch sẽ không có người
tàn tật tới lui như âm khí, một loại âm khí nặng nề dai dẳng. Một nơi sạch sẽ để
đôi mắt mù lòa như dị nhân ấy không còn ám lấy gã…
-
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…
Hừ,
thằng Đao làm gã hơi giật mình. Chẳng có ma quỷ hay thánh thần nào khiến gã sợ.
Gã chỉ ngán cái giọng ồm ồm ngọng nghịu của thằng Đao. Cái giọng ấy cứ như vọng
từ âm ty lại. Gã nhếch mép. Cái nhếch mép nhanh cỡ ngang
tốc độ ánh sáng. Hình như gã có ý muốn cười. Quả vậy, gã đã cười. Ánh mắt
gã nói lên điều ấy. Rồi gã nhổ nước bọt. Chúa thần là thứ vớ vẩn nhất con người
có thể nghĩ ra. Nhưng nhờ Chúa, nhờ Thần, nhờ Phật mà gã ăn nên làm ra. Càng vớ
vẩn càng dễ mang tiền đến. Và mang rất nhiều tiền đến két của gã.
-
Để tao phụ mày…
Gã
cúi xuống, đầy thành kính, đầy sốt sắng, đầy vẻ yêu thương, gã phụ thằng Đao đóng
đinh để hai khúc gỗ dính vào nhau thành hình chữ thập.
Vẫn
đầy thành kính, gã làm dấu Thánh Giá rồi cùng thằng Đao đọc kinh.
“…Lạy
vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.”
Gã
kéo giọng dài, đọc to rền rĩ lấn lướt giọng ồm ồm của thằng Đao. Thằng Đao chia
cho gã một nửa thức ăn và một nửa tiền nó được bố thí hôm nay.
***
Rồi
gã cũng cần một gốc gác. Người ta sẽ hỏi gã từ đâu mà đến. Gã có nơi để về thì
phải có nơi từ đó gã ra đi. Gã không thể trả lời là gã không biết, gã không nhớ
hay gã đục đất nẻ chui lên. Một con người lịch thiệp sống trong một ngôi nhà
khang trang như ngôi nhà gã đã thấy ở phố cảng thì không thể không có lấy một gốc
gác đàng hoàng. Nhất là khi ngôi nhà ấy còn có khoảng
sân vuông, còn có hòn non bộ, còn có đàn cá cảnh, còn có con chó Phú Quốc, còn
có cái bàn nước và sách báo… thì chủ nhà càng phải có một gốc gác đàng
hoàng. Phải, một gốc gác đàng hoàng! Gã phải có gốc gác và phải có quê hương để
nhớ thương kể lể. Một quê hương! Phải rồi, một quê hương. Ý tưởng về một quê
hương lóe lên trong đầu gã như chùm pháo bông rực lên trên nền đen của một đêm
ba mươi nào đấy, nó chấp chới rồi lịm vào đêm. Mấy chục năm trong nghề, gã qua biết
bao phố thị nhưng không chốn nào cho gã gọi một tiếng quê hương. Trống rỗng
thay, gã phải tìm nơi để neo lòng mình. Đành vậy, gã quay về nhận phố cảng như
một-quê-hương.
Phố
cảng ấy, so với nhiều nơi gã đã qua,thì hoa lệ hơn nhiều. Hoa cho người giàu và
lệ cho người nghèo. Gã thuộc về nhóm thứ hai. Bên rìa thành phố, bên rìa những
rạp xi-nê, những nhà hàng, những khán đài sân vận động… có một ngôi nhà ấm-cúng
và đầy-đủ. Ngôi nhà của gã và cha nuôi. “Ngôinhà ấm cúng”là từ mà cha nuôi gã
đã dùng. Và chỉ là từ mà ông dùng còn gã thì không. Với gã, nó là cái hộp diêm
nằm cuối một hẻm nhỏ trong một hẻm lớn. Nơi ấy, suốt ngày tuyệt không mộtbóng
người nào qua lại ngoại trừ cha con gã. Không một ai, thực sự là không một ai.
Tối tăm, ẩm thấp, mốc thếch…
Gã
rùng mình. Xộc vào mũi gã là cái mùi của nhà cũ trên quê cũ. Không! Gã không thể
nhận nơi ấy làm quê hương, không thể nhận cái mùi ấy làm cái nôi nuôi gã lớn. Không
thể nào! Gã như mắc ói. Thật ghê tởm và bệnh hoạn.
Rồi
gã sẽ có một kịch bản khác hoàn hảo cho gốc gác của mình. Có tiền là có tất cả,
sớm thôi gã sẽ có tuổi và sẽ có quê. Không phải phố cảng cũng chẳng phải cái
nơi mả dời thổ tả gã đang ở mà là một nơi sạch sẽ. Một nơi sạch sẽ, theo ý gã,
là nơikhông có người tàn tật tới lui như âm khí. Một nơi sạch sẽ, theo ý gã, là
nơi đôi mắt mù lòa như dị nhân ấy không còn ám lấy gã. Một nơi sạch sẽ, theo ý
gã, là nơi khuất bóng nhà thờ, khuất bóng tiếng chuông và cả tiếng kinh cầu…
-
Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm…
Giọng
thằng Đao như vọng từ âm ty lại. Chúa thần là thứ vớ vẩn nhất con người có thể
nghĩ ra. Càng vớ vẩn càng dễ mang tiền đến. Và mang rất nhiều tiền đến két của
gã. Gã quỳ xuống bên thằng Đao.
Giờ
đọc kinh kết thúc.
- Mày
muốn được khôn ngoan thông sáng?
Thằng
Đao gật đầu lia lịa.
-
Chúa của mày đang ở bên mày đây Đao. Mày không cần phải cầu xin Cha trên Trời nữa
đâu. Tao sẽ cho mày khôn ngoan của tao nhưng để xem hôm nay mày có kiếm được
nhiều tiền không đã.
Thằng
Đao nom ngơ ngác. Gã nom hào hứng.
-
Ăn mày là một nghề nghiêm túc và trí tuệ. Trí tuệ, mày hiểu không? Nghĩa là mày
phải dùng cái này nè.
Gã
chỉ tay lên đầu gã, rồi lên đầu thằng Đao. Dưới ánh hoàng hôn, mắt gã sáng lên.
Thi thoảng thằng Đao gật đầu. Thi thoảng thằng Đao lắc đầu. Còn gã say sưa nói.
-
Có lẽ tao phải dạy cho mày cả tuần mới hết, có khi cả tháng cả năm mới xong.
Gã
mơ màng. Gã thấy mình đã thành trí thức. Có lẽ gã phải viết một cuốn sách. Phải
rồi, một cuốn sách với tên tác giả là Cu Mù! Và gã phải gửi cuốn sách về phố cảng
cho cha nuôi của gã. Thậm chí, ông phải là người đầu tiên đọc nó. Ông phải đọc nó
để thấy ăn mày là một nghề nghiêm túc và trí tuệ. Ông phải đọc nó để thấy ông
đã sai khi phản đối gã lúc gã đề nghị dắt ông đến nơi mà gã đã phải đánh đổi rất
nhiều mới có được sự bảo kê. Ông phải đọc nó để thấy rằng cái ước mơ ông dành
cho gã thật bệnh hoạn. Làm người tử tế không mang lại cho gã nhiều tiền và không
mang lạicho gã ngôi nhàcó sân vuông, có hòn non bộ, có đàn cá cảnh, có con chó
Phú Quốc, có bàn nước, có sách báo, có sự xuýt xoa của người qua kẻ lại... Ông
phải đọc nó để thấy rằngông đã sai khi muốn gã học nghề, một thứ nghề tử tế và
mạt kiếp như chính ông.Và ông phải đọc để thấy nhờ ăn mày gã đã có thể có những
thứ gã muốn, những thứ mà cuộc đời tăm tối của ông trong cái hộp diêm mục nát ấy
không bao giờ có thể tưởng tượng ra. Môi gã cử động. Hình như gã có ý muốn cười.
Quả vậy, gã đã cười. Rồi gã lại nhổ nước bọt.
Cha
nuôi của gã sẽ là người duy nhất cần đọc cuốn sách ấy, nhưng cha nuôi của gã
còn sống hay đã chết? Gã không biết.
Gã
đứng dậy. Thằng Đao chia cho gã một nửa thức ăn và một nửa tiền nó được bố thí
hôm nay.
***
Rồi
gã cũng sẽ cần một cái tên. Khốn nạn, cái tên còn quan trọng hơn tuổi tác và
quê quán của gã. Cái tên là thứ người ta muốn biết đầu tiên khi họ muốn biết về
gã. Rồi họ sẽ gọi gã là “ông…”, “chú…”, “bác…”, “anh…” gì đấy, phải có một cái
tên lịch thiệp tử tế vừa xứng với ngôi nhà khang trang của gã. Xứng với khoảng
sân vuông vức gọn gàng, xứng với hòn non bộhoa đá hữu tình, xứng với lũ cá lập
lờ dưới lớp bèo, xứng với con chó Phú Quốc trứ danh, xứng với chồng sách báo phảng
phất mùi trí thức… Trời đất quỷ thần ơi, gã cần một cái tên để làm người!
Kí
ức lại chạy lộn ngược trong đầu gã. Cha nuôi của gã cũng từng chọn cho gã một
cái tên. Phải, gã đã nhớ ra, một cái tên thánh thiện và nghèo nàn như mơ ướcông
dành cho gã. Thành Nhân. Gã phải Thành Nhân, phải làm một người tử tế, sống một
cuộc đời tử tế, có một nghề tử tế và… mạt kiếp. Sém chút thì nó trở thành tên của
gã trên giấy tờ. Chỉ “sém” thôi vì cái tên không hợp với gã hoặc gã không hợp với
cái tên…
“Xoạch!”
Thằng
Đao húc phải người gã. Khẩn trương và đầy vẻ ăn năn, thằng Đao ngọng nghịu xin
lỗi gã, hai tay nó giữ chặt túi ni-lông đựng xi măng trắng trước bụng.
-
Để tao phụ cho.
Hôm
nay thằng Đao muốn làm tượng Chúa Cứu Thế.
Chúa
Cứu Thế là một người đàn ông gầy rạc trần truồng. À không, vẫn còn cái khố rách.
Nom Chúa Cứu Thế chẳng giống ai ở cái xứ này. Tóc nè, tóc thì xoăn và dài tới
vai. Rồi thì đầu, đầu đội vòng gai nhọn hoắc. Và Chúa chết, chết ngoắc ngoẻo
trên cây thập giá. Đây, chỗ này nè, cạnh sườn bên phải là một vết đâm… Thằng
Đao hì hục phụ gã, gã nhảy một bước từ thợ phụ lên thợ chính lúc nào chẳng hay.
Chúa Cứu Thế đẹp và thật vô cùng qua lời của gã. Y như mùa Phục Sinh nhiều chục
năm về trước, khi gã ngồi bên cha nuôi của gã trong nhà thờ. Ông ngồi bất động
ngắm Chúa Cứu Thế cả giờ đồng hồ. Bất chợt, ông quay sangnhờ gã tả Chúa Cứu Thế
trên thánh giá cho ông nghe. Gã tả đến đâu ông chùi nước mắt đến đó. Ông bảo
chưa bao giờ ông thấy Chúa Cứu Thế rõ ràng đến thế. Rồi ông nắm tay gã:
-
Nghe này, nhà mình sẽ có Chúa. Ý ba là sẽ có một tượng Chúa Giê-su trên Thánh
Giá y như con vừa tả. Chúng ta sẽ để Chúa của chúng ta ở chỗ đẹp nhất. Nghe
này, con có thể sẽ thấy khó tin nhưng ba đã chọn được chỗ đẹp nhất rồi đấy.
Trên bàn nướccủa chúng ta, ngay trước bàn thờ. Ba sẽ chạm vào chân Chúa vào mỗi
buổi sáng và sẽ chạm vào vết thương của Chúa vào mỗi đêm trước giờ chúng ta đi
ngủ…
Phải
mất mấy năm, gã chẳng thể lẩy ra một con số, nhưng chắc chắn là không dưới ba
năm kể từ chiều hôm ấy cho đến ngày cha nuôi gã dắt gã vào một tiệm sang trọng.
Ông sờ soạng tìm Chúa của mình. Dĩ nhiên ông tìm được. Như lời gã đã tả hay chỉ
là cảm giác của ông theo lời gã, gã chẳng quan tâm và cũng chẳng nhớ họ đã nói
gì với nhau trong cửa tiệm sang trọng chiều hôm ấy. Gã chỉ nhớ hơn một năm sau
cha nuôi của gãdúi vào tay gã một thứ gì đó như là cái túi bạc.
Phải
rồi, một cái túi bạc! Chính xác là một cái túi bạc.
Ông
nắm tay gã, như đã nắm tay gã mùa Phục Sinh mấy năm về trước khi họ ngồi bên
nhau trong nhà thờ, trước tượng Chúa Cứu Thế. Giữa cơn ho sù sụ, ông dặn dò gã cặn
kẽ đến từng li đường đi đường về để Chúa của họ được rước về nhà cẩn trọng và
hoàn hảo nhất. Gãnhìn cha mình. Hình như đó là lần đầu tiên gã chủ động nhìn cha
mình lâu đến thế và nhìn vào đôi mắt mù lòa không cử động như dị nhân của cha
mình lâu đến thế. Khốn nạn, trên gương mặt xanh như tàu lá vì bệnh tật ấy và
trên đôi mắt mù lòa không cử động như dị nhân ấy lại ánh lên thứ gì đó rấtrạng
rỡ. Sớm thôi, ngay hôm nay thôi ông sẽ được chạm vào chân Chúa của ông vào mỗi
buổi sáng và chạm vào vết thương trên ngực Người vào mỗi đêm trước giờ hai cha
ông lên giường đi ngủ...
Gã
xuống phố đi về hướng cửa tiệm có tượng Chúa Cứu Thế mà cha gã đang chờ, như lời
cha gã dặn. Gã bước vào cửa tiệm. Gã nhìn Chúa Cứu Thế chết ngoắc ngoẻo trên thập
giá. Gã đẩy cửa bước ra, cánh cửa đóng sầm sau lưng gã. Gã nhếch mép. Cái nhếch
mép nhanh cỡ ngang tốc độ ánh sáng. Hình như gã có ý muốn cười.
Gã
vào bến xe. Gã mua vé. Gã lên xe. Gã chọn một chỗ ngồi dễ chịu. Gã rời phố cảng
khi nhà thờ gióng hồi chuông chiều rền rĩ.
Gã
rời phố cảng. Bức tượng lùi dần sau lưng. Chúa Cứu Thế lùi dần sau lưng. Nhà thờ
lùi dần sau lưng. Tiếng chuông chiều rền rĩ lùi dần sau lưng. Tiếng kinh cầu
tha thiết đêm đêm lùi dần sau lưng. Những bữa ăn mạt kiếp lùi dần sau lưng. Những
lời tạ ơn như khuôn vàng ý ngọc của người cha nuôi trước những bữa ăn mạt kiếp
lùi dần sau lưng. Cái hộp diêm tối tăm, tồi tàn, mốc thếch lùi dần sau lưng.
Người đàn ông mù lòa rạng rỡ chờ ôm Chúa của mình trong cái hộp diêm ấy cũng
lùi dần sau lưng. Và cả mùi của nó, mùi của phố cảng, mùi của thứ gọi là quê
hương cũng thế. Tất cả lùi dần…
Lùi
tất cả khi trước mắt gã là ngôi nhà có khoảng sân vuông, có hòn non bộ, có đàn
cá cảnh, có con chó Phú Quốc, có cái bàn nước và sách báophảng phất mùi trí thức.
Gã đã chịu đựng quá nhiều. Và gã đã quá thiếu thốn. Quá tuyệt vọng. Quá đau khổ.
Quá mỏi mòn chờ đợi. Gã chờ ngày mà cảm giác thiếu thốn nảy nở sinh sôi trong
lòng cha nuôi của gã như đã nảy nở sinh sôi trong lòng gã.Làm sao, gã phải làm
sao để ông thôi thấy ông đang đủ đầy dư dật? Để ông thôi thấy Chúa vẫn yêu
thương và ban hồng ân cho ông nhiều vô kể?Để ông thôi tạ ơn Đấng vô tâm vô hình
vô tướng ấy? Làm sao, gã phải làm sao để cha nuôi của gã thấy cuộc sống này
không đẹp như trong đôi mắt mù lòa của ông? Làm sao cho cha gã nghĩ đến thứ gì
đó khác hơn và lớn hơn ngoài Chúa Cứu Thế ấy? Gã bất lực. Cái ngày gã được hả
hê có lẽ chẳng bao giờ đến…
Vậy
nên gã rời phố cảng. Thật vậy. Gã đã rời phố cảng. Gã đã có tự do. Gã đã có cuộc
đời như gã muốn. Và gã sắp sửa có ngôi nhà như gã muốn. Ngôi nhà với cái sân
vuông, với hòn non bộ, với bầy cá cảnh, với con chó Phú Quốc và với cái bàn nước
cùng chồng sách báo thơm lừng trí thức mà gã đã thấy ở phố cảng. Gã có mọi thứ.
Thật vậy, mọi thứ chỉ trừ cảm giác đủ đầy và chỉ trừ cảm giác được an ủi hằng
đêm trong lời cầu nguyện…
-
Đao,cho tao cái tượng này nhé.
Thằng
Đao đang chăm chú xoa bàn chân của Đấng Cứu Thế, nó không nghe thấy.
-
Hôm nay tao không đói, tao không lấy đồ ăn của mày. Mày cho tao Chúa Cứu Thếnày
nhé.
Thằng
Đao lắc đầu.
-
Tao cũng không nhận tiền mày chia. Cho tao nhé.
Thằng
Đao lắc đầu.
-
Tao sẽ cho mày tiền.
Thằng
Đao lắc đầu.
-
Đây nè, tao cho mày hết, mua đồ ăn cho sướng nhé.
Thằng
Đao lắc đầu. Gã kéo phéc-mơ-tuya quần dài, móc tiền trong túi quần đùi ra.
-
Đây nữa. Bằng này tiền mày ăn cả tháng không hết. Bán Chúa cho tao đi!
Thằng
Đao lắc đầu. Nó bắt đầu lo lắng.
-
Tao còn tiền ở nhà nữa. Mày ăn cả năm không hết.
Thằng
Đao lắc đầu. Nó đứng dậy ôm Chúa Cứu Thếvừa đúc còn chưa kịp ráo toan bỏ chạy.
Gã kéo tay thằng Đao lại.
-
Đây. Chìa khóa két của tao đây. Mày ăn cả đời không hết. Mày có thể mua cả nhà
nữa. Một ngôi nhà đàng hoàng. Nhà có sân nè. Có hòn non bộ nè. Có cá cảnh nè. Có
cả con chó Phú Quốc với cái xoáy đẹp hết sảy. Mày biết giống chó Phú Quốc, đúng
không Đao? Còn cócái bàn nước nữa và sách báo nữa… Có hết, có hết, có tất cả…
Gã
hét lên. Thằng Đao sợ hãi ôm Chúacủa mìnhchạy bán mạng. Gã lao theo tóm lấy
lưng áo nó. Cái áo thằng Đao mỏng như lá lúa rách toạc dưới bàn tay của gã. Loạng
choạng, thằng Đao tiếp tục chạy. Gã dísát sau lưng nó. “Bịch!” Gã vấp thanh gỗ,
ngã nhào trên đất. Như người chết đuối, gã tóm cổ chân thằng Đao.
-
Đao, Đao! Bán Chúa cho tao! Tao cho mày tất cả.
-
Không!!!
Thằng
Đao run lẩy bẩy, tay khư khư ôm đống xi măng trước ngực. Gã lao vào. Thất thế,
hoảng hốt, thằng Đao lấy hết sức bình sinh tung cú đạp trí mạng vào ngực gã rồi
ôm Chúa Cứu Thế trong lòng chạy biến. Trên Đấng Cứu Thế, nước mắt nhòe nhoẹt. Ngực
thằng Đao dính bê bết xi măng. Ngực của gã cũng bê bết nhòe nhoẹt. Gã ôm ngực,
như cười, như khóc.
Một
phần Chúa Cứu Thế vừa dính được vào người gã.
0 Nhận xét