NGÀI ĐẾN TRONG ĐỜI TÔI
Maria Têrêsa Thụy Nguyên (Phú Thọ)
Chẳng biết từ
lúc nào Chúa đã đi vào cuộc đời tôi? Dù là lúc nào đi chăng nữa, thì điều quan
trọng nhất đó là tôi đã nhận ra sự hiện diện của Chúa, và cuộc đời tôi đã bắt đầu
thay đổi. Như một làn gió nhẹ đầu xuân, Ngài khiến tôi rung động. Thật hạnh
phúc vì tôi đã gặp được Ngài và đã được Ngài chinh phục. Tôi nhớ có ai đó đã từng
nói: “Trong cuộc sống của con người sẽ có từng giai đoạn tuyệt vời
nhất, giai đoạn đó là ân huệ cao vời của Thiên Chúa”. Giai đoạn này
không đến trong cùng một độ tuổi nhất định với tất cả mọi người.
Có người giai đoạn này đến rất sớm khi mới bước vào đời, có người
lại đến muộn hơn khi đã ở tuổi xế bóng. Có người giai đoạn này
dừng lại lâu, nhưng có người thì nó chỉ lướt qua như một làn gió
thoảng. Đó có thể được xem là tình yêu thuở ban đầu hay “mùa xuân của ơn
gọi”. Nếu nhận ra và biết sống trọn vẹn những khoảnh khắc tuyệt vời
đó, nó sẽ là lực đẩy giúp ta có thêm nghị lực để sống một cuộc
sống tròn đầy hơn, ý nghĩa hơn.
Tôi sinh ra và lớn
lên khi đất nước còn trong thời kỳ gian khó. Vì thế, những thế hệ trước tôi đều
không được học hành đến nơi đến chốn. Hầu hết các gia đình chỉ cho con học hết
tiểu học, gia đình nào khá hơn thì cho con học đến trung học cơ sở. Còn bậc
trung học phổ thông chỉ giành cho những ai học giỏi, hiếu học và gia đình có điều
kiện. Trong làng tôi thời đó, số người đi học phổ thông chỉ đếm trên đầu ngón
tay. Số phận của tôi cũng không nằm ngoài cái lệ thường đó. Tôi vừa thi tốt
nghiệp trung học cơ sở xong, bố mẹ tôi đã tuyên bố: “Nghỉ học về đi làm”. Tôi
đã sớm biết điều đó nhưng sao vẫn nghe lòng buồn rười rượi. Mặc dù học lực của
tôi chỉ ở mức khá nhưng tôi rất thích được đi học. Chính sự khát khao đó khiến
tôi tìm đến với Chúa. Tôi “đặt điều kiện” với Chúa mà chẳng hề đắn đo suy nghĩ
gì. Tôi thưa cùng Ngài: “Nếu Chúa cho con được đi học, con sẽ dâng cho Chúa cuộc
sống của con”. Thế rồi, ngày ngày tôi vẫn lên rừng xuống ruộng với bố mẹ, đêm về
tôi lôi sách vở ra học. Thấy vậy, bố mẹ tôi hỏi: “Có đi học đâu mà lôi sách vở
ra làm gì?”. Tôi chỉ biết đáp lại trong ngậm ngùi: “Con xem cho đỡ buồn ạ!”. Tối
nào cũng thế, tôi âm thầm cầu nguyện cùng Chúa rồi lặng lẽ ngồi vào bàn học.
Ngày thi đã đến gần, hy vọng trong tôi cũng dần tan biến. Tôi biết cơ hội của
tôi đã hết vì thời gian nộp hồ sơ cũng đã kết thúc. Tôi ôm sách vở đi cất và ngồi
trước màn hình ti-vi nhưng lại chẳng biết ti-vi đang chiếu chương trình gì. Thấy
vậy bố tôi nhắc: “Sao không học bài nữa à con?” - “Không ạ!” - “Bố nhờ người nộp
đơn rồi, mai lên trường xem số báo danh mà vào thi”. Nghe vậy, tôi vui như mở cờ
trong bụng, nhưng niềm vui chưa bật thành tiếng đã vụt tắt khi nghe câu tiếp
theo: “Nhưng phải vào được hệ A, còn không thì về mà hốt phân trâu”. Trời ơi,
thế thì có khác gì bảo tôi đừng đi thi. Cả huyện được hai trường, trường tôi
thi lại là trường điểm, học sinh tập trung về đó rất đông, hệ công lập (hệ A)
thì lấy có năm lớp, với trình độ của tôi hiện nay, cộng thêm với việc không đi
ôn thi thì rớt là cái chắc! Tôi lại chạy đến với Chúa, và chờ đợi một “phép lạ”.
Cuối cùng “phép lạ” ấy cũng xảy ra, tôi đạt kết quả cao hơn cả sự mong đợi. Tôi
biết đó là việc Chúa làm. Tôi luôn luôn ghi nhớ điều đó, nhưng còn về lời hứa với
Chúa thì tôi vờ như không biết.
Thời gian lặng lẽ
trôi cho tới khi tôi chuẩn bị tốt nghiệp. Đó là lúc trong tôi đầy ắp những hoài
bão cho tương lai. Tôi đã chọn cho mình một ngôi trường đại học và lên kế hoạch
cho sự nghiệp mai sau. Một tương lai rộng mở trước mắt. Bố tôi cũng rất hào hứng,
ông muốn tôi trở thành một bác sĩ. Dường như bố cũng đã nhắm cho tôi một chỗ
làm ổn định. Nhưng “người tính không bằng trời tính”! Quả thật, Chúa đã đến và
Ngài gác những giấc mơ ấy sang một bên bằng cách gợi cho tôi về lời hứa năm
xưa. Tôi bắt đầu suy nghĩ, đắn đo và chọn lựa. Tôi nhanh chóng đi đến quyết định
là phó thác cuộc đời mình cho Chúa. Một chút lo lắng thoáng qua khiến tâm trạng
tôi chùng xuống, nhưng niềm tin trong tôi thì vô cùng mãnh liệt. Tôi biết tôi
đã được Chúa “chiếm đoạt”. Đó cũng chính là lúc tôi phải bắt đầu một cuộc chiến
mới, cuộc chiến vì lý tưởng đời mình. “Tôi
không có người dẫn đường, không có ánh sáng, ngoại trừ ánh sáng rực
lên trong trái tim tôi, ánh sáng này dẫn tôi an toàn hơn ánh sáng ban
trưa, đến nơi mà Đấng thấu hiểu lòng tôi đang chờ đợi” (Trích Vào một đêm tối của thánh Gioan Thánh
Giá).
Khi biết tôi có
ý định đi tu, bố mẹ tôi kiên quyết phản đối. Họ tìm mọi cách để ngăn cản tôi.
Ban đầu là những lời khuyên can nhẹ nhàng với việc đưa ra những khó khăn trong
đời thánh hiến; rồi nào là “bố mẹ không muốn làm ông bà cố”, “gia đình mình không đủ đạo đức như người ta”… Thấy tôi
vẫn cương quyết với quyết định của mình, bố mẹ tôi đâm ra cáu gắt, khó tính với
đám con cái chúng tôi. Bố tôi mắng anh chị tôi không chịu khuyên bảo em, rồi cuối
cùng bố tôi lấy thành ngữ: “Cá không ăn
muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư” để nói với tôi và tuyên bố từ
tôi.
Từ bé tôi vẫn
luôn được tiếng là đứa con ngoan nhất nhà. Tôi như là niềm tự hào của bố mẹ. Bố
mẹ rất tin tưởng và hy vọng ở tôi, chưa bao giờ tôi thấy bố mẹ tỏ ra buồn hay
lo lắng về tôi cả. Vậy mà, bây giờ tôi như đã giáng một đòn thật đau xuống trên
những người đã sinh thành, dưỡng dục mình. Tôi đã làm cho họ thất vọng. Tôi cảm
thấy lòng trĩu nặng vô cùng. Nhưng chọn lựa là hy sinh, nếu tôi không thể đạt
được tất cả theo ý mình, thì cuộc dâng hiến của tôi sẽ buồn tẻ và ít giá trị.
Tôi nghĩ như vậy và quyết định làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đang
ngự trong tôi, và tôi cũng nghe thấy Chúa nói bên tai: “Ai yêu cha, yêu mẹ hơn ta thì không đáng làm môn đệ ta”. Tôi quyết
định theo đuổi lý tưởng của mình. Chưa bao giờ tôi thấy mình mạnh mẽ, kiên định
và bình an đến thế. Thật kỳ lạ, sức mạnh của Thiên Chúa, động lực của tình yêu
đã thu hút tôi, lôi kéo tôi mà tôi không thể cưỡng lại. Tôi đã để cho Chúa hướng
dẫn, điều phối cuộc đời mình theo cách của Ngài, vì tôi tin đó là con đường tốt
nhất dẫn tôi đến cùng Thiên Chúa. Cũng nhờ sức mạnh của tình yêu thuở ban đầu
đó mà tôi còn đứng vững trong ơn gọi cho tới ngày hôm nay. Nó không chỉ giúp
tôi vượt thắng được cuộc chiến đấu để giành lấy sự ủng hộ từ phía gia đình,
nhưng còn là sức mạnh giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống,
nhất là những thử thách, cám dỗ trên hành trình theo đuổi ơn gọi của mình. Mỗi
khi tôi chùn chân muốn thoái lui, tôi lại nhớ tới tình yêu Đức Kitô dành cho
tôi. Tôi nhớ về cuộc chiến đấu để được đến với Chúa vào cái thuở ban đầu đó, là
tôi lại có thêm sức mạnh để bước tiếp. Giờ đây tôi có thể quả quyết như thánh
Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi
tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy,
bắt bớ và gươm giáo?... Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng
đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37).
Tạ ơn Chúa vì
tôi đã được chìm đắm trong những tháng ngày hạnh phúc đó. Những tháng
ngày của “thuở ban đầu lưu luyến ấy” cũng là lúc tôi bước vào cái tuổi xuân
xanh của đời người, tuổi của mộng mơ và hoài bão, tuổi của cống hiến và dâng
trao. Đó là cái tuổi vừa đủ lớn để đưa ra chọn lựa cho cuộc đời, nhưng cũng là
cái tuổi đầy liều lĩnh và mạo hiểm. Chính vì thế mà dấu ấn của Ngài ở trong tôi
chẳng bao giờ phai nhạt. Đối với tôi, đó là khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc
đời. Dù có phải quên lãng tất cả, nhưng với khoảng thời gian đó tôi sẽ không
cho phép mình quên. Giây phút ấy rất nhẹ nhàng nhưng cũng đầy quyết liệt, âm thầm
lắm mà cũng hết sức rạo rực. Ngài đến như thế đó, để lại trong tôi bao kỷ niệm
khó phai. Đã có lúc tôi tự hỏi liệu mình có bất hiếu không? Thời gian đã cho
tôi câu trả lời: Không hề, tôi vẫn luôn là niềm tự hào của cha mẹ. Và, nếu phải
chọn lựa lại, tôi vẫn chọn Chúa là gia nghiệp của đời tôi.
0 Nhận xét